Điệu tính và Giọng điệu Điệu_tính

Điệu tính thường xác định nốt Chủ âm và/hay Hợp âm chủ: một nốt và/hay chuỗi 3 nốt trưởng hay thứ thể hiện dấu lặng cuối cùng của bản nhạc hay một đoạn của bài hát. Mặc dù Điệu tính của một bài nhạc có thể được đặt theo kí tự đầu bài nhạc (Ví dụ Đô trưởng) hay suy ra từ các dấu hóa ở đầu khuôn nhạc, nhưng việc xác định Điệu tính thường được xác định thông qua mối quan hệ của các hợp âm và chủ âm, một chuỗi những hợp âm dẫn tới một hay nhiều Kết (cadences), và sự thay đổi giai điệu (Như là sự thay đổi từ âm đầu (leading tone) đến chủ âm (tonic)). Ví dụ, Điệu tính của Son bao gồm những nốt sau: Son La Si Đô Rê Mi và Fa thăng và hợp âm chủ của nó là Son – Si – Rê. Thường xuyên nhất tại phần mở đầu và kết thúc của các bài nhạc truyền thống, chủ âm, đôi khi là cả hợp âm chủ của nó, bắt đầu và kết thúc một bản nhạc trong Điệu tính được chọn. Một Điệu tính có thể là trưởng hoặc thứ. Âm nhạc có thể được mô tả như trong âm giai Dorian, hay Phrygian, v…v…, và thường được cho là có những âm giai đặc biệt chứ không phải là Điệu tính. Các ngôn ngữ khác tiếng Anh có thể sử dụng hệ thống tên gọi Điệu tính khác so với quy ước.

Mặc dù nhiều nhạc công nhầm lẫn giữa Điệu tính và Âm giai, nhưng thực ra âm giai là một tập hợp có thứ tự các nốt thường được sử dụng trong một Điệu tính trong khi Điệu tính là trung tâm của một bài nhạc, được xây dựng dựa trên những hợp âm cụ thể.[2]

Các nốt và các hợp âm được sử dụng trong một Điệu tính thường được rút ra từ âm giai trưởng và thứ có liên quan đến hợp âm chủ nhưng bao gồm thêm hợp âm mượn (Borrowed chord), hợp âm chọn (altered chords), hợp âm phụ (secondary dominants) và các hợp âm tương tự. Tất cả những nốt và hợp âm này, tuy nhiên, được sử dụng trong những cấu trúc bình thường dùng để tạo nên cái hay của các chủ âm cũng như hợp âm chủ.

Kết (Cadence) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên Điệu tính. Thậm chí những Kết không bao gồm chủ âm hay hợp âm chủ, như những Kết nửa (half cadences) và Kết giả (deceptive cadences), cũng có thể tạo nên Điệu tính vì những chuỗi hợp âm đó có thể tạo ra những hòa âm độc đáo.

Những bản nhạc ngắn có thể chỉ cần dùng duy nhất một Điệu tính. Một cấu trúc thường thấy cho một bài nhạc đơn giản thường là: Một đoạn kết thúc với một Kết trên chủ âm, một đoạn kết thúc thứ hai với một Kết nửa, cuối cùng, dài hơn cả hai cái trên, một đoạn kết thúc với một Kết chính thức trên chủ âm.

Những bài nhạc phức tạp hơn có thể xây dựng một Điệu tính chính, sau đó chuyển sang một Điệu tính khác, hay một chuỗi của những Điệu tính, sau đó trở về Điệu tính ban đầu. Trong Baroque, người ta rất thường lặp lại toàn bộ đoạn kết của một bài nhạc, được gọi là một ritornello, trong mỗi Điệu tính đã từng được thiết lập. Trong các bản nhạc sonat cổ, Điệu tính thứ hai luôn được đánh dấu bởi một Giai điệu trái ngược. Một Điệu tính khác có thể được xem như một chủ âm tạm thời, gọi là sự chủ âm hóa (“tonicization”).

Trong việc sáng tác nhạc thời kì tiền cải cách (1600-1925), và hầu như toàn bộ âm nhạc phương Tây của thế kỉ 20, các bài nhạc đều bắt đầu và kết thúc trong cùng một Điệu tính, thậm chí (nếu như trong thời kì âm nhạc lãng mạn) Điệu tính là yếu tố đầu tiên bị loại bỏ một cách khó hiểu. Tuy nhiên, một vài sắp xếp (arrangements) ) của âm nhạc phổ thông, đôi khi sẽ tăng từ nửa cung đến một cung trong bài nhạc (thường là trong phần Điệp khúc cuối) và vì vậy sẽ kết thúc bằng một Điệu tính khác. Đây là một ví dụ của sự chuyển dời Điệu tính (modulation).

Chúng ta cần phải chú ý rằng Điệu tính của một bài nhạc… góp phần tạo nên một sự hấp dẫn không thể định nghĩa rõ ràng được. Rất khó để đặt một thuật ngữ cho nó, ví dụ như những đoạn nhạc chơi chậm ở Điệu tính La giáng trưởng, chơi nhanh ở Điệu tính Đô thứ và dồn dập với Rê trưởng,… . Không có sự thống nhất chung trong vấn đề này. Đã có rất nhiều tranh luận, vì những tiêu chuẩn của Cao độ đã thay đổi qua nhiều thập kỉ, cho rằng ngày nay chúng ta thường nghe những bài nhạc được viết hai thế kỉ trước trong một Điệu tính khác (thường là cao hơn) so với dự định sáng tác của nhạc sĩ. Cũng có những tranh luận rằng khái niệm về Điệu tính của người biểu diễn thường được tạo ra từ các yếu tố như là “cảm xúc” của Điệu tính hay chủ âm trên đàn piano hay những kí hiệu của nó. Nhiều nhạc công, tuy nhiên, luôn tìm kiếm những trải nghiệm cảm xúc cụ thể được liên kết với một Điệu tính cụ thể, mà không quan tâm đến sự thay đổi trong tiêu chuẩn về Cao độ và các yếu tố khác.

— John D. White (1976)nhấn mạnh thêm

Trong nhạc rock và một số dòng nhạc phổ thông, “thường có khuynh hướng chuyển dời giữa hai Điệu tính”, với những ví dụ như "Dreams" của Fleetwood Mac và "Under My Thumb" của Rolling Stones'. “Hiện tượng này xuất hiện bởi việc cho phép nhiều sự biểu diễn Điệu tính (thường là một tập hợp Cao độ diatonic) đi kèm với những điều khác, những bằng chứng chính xác hơn trong việc hỗ trợ việc trình diễn (Như là việc sử dụng một nốt như là nốt chủ của hợp âm đầu tiên và sử dụng một cách cố định các nốt khác như là Cao độ của giai điệu (resolution) và chủ âm của hợp âm cuối cùng của mỗi đoạn)."[3]